
Nhiều thách thức trong thực hiện mục tiêu tăng trưởng hai con số
Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng 8% trở lên vào năm 2025 và mức tăng trưởng hai con số trong giai đoạn 2026-2030, hướng tới nhóm nước thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và nhóm nước thu nhập cao vào năm 2045. Giới chuyên gia đánh giá, việc theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số không chỉ là khát vọng chiến lược, mà còn là thước đo phản ánh tầm nhìn, quyết tâm và năng lực điều hành kinh tế vĩ mô của đất nước.
GS,TS. Trần Thị Vân Hoa - Đại học Kinh tế Quốc dân (NEU) chia sẻ, một nghiên cứu của NEU đã xây dựng ba kịch bản tăng trưởng kinh tế cho Việt Nam đến năm 2045, mỗi kịch bản mang một định hướng phát triển khác nhau, với các mức độ rủi ro và yêu cầu chính sách tương ứng để Việt Nam có thể đạt mức tăng trưởng kinh tế cao.
Kịch bản A với mô hình “Khởi động nhanh”, nhằm tạo ra một cú hích lớn ngay từ giai đoạn đầu để nhanh chóng nâng cao quy mô và vị thế kinh tế quốc gia. Trong kịch bản này, GDP của Việt Nam dự kiến đạt mức tăng trưởng trung bình 11%/năm trong giai đoạn 2025-2029, sau đó giảm dần còn 9%/năm trong giai đoạn 2030-2037 và ổn định ở mức 7 - 8%/năm từ 2038-2045. Theo các chuyên gia, mô hình này tiềm ẩn nguy cơ quá tải trong những năm đầu, dễ dẫn đến tình trạng “kiệt sức” nếu thiếu sự điều chỉnh linh hoạt và nguồn lực đủ lớn.
Kịch bản B với mô hình “Tăng tốc kéo dài”. Kịch bản này duy trì tốc độ tăng trưởng cao ở mức 11%/năm trong giai đoạn 2025-2031, sau đó giảm dần xuống 8,5 - 9% (giai đoạn 2032-2038) và 6,5 - 7,5% (giai đoạn 2039-2045). Theo các chuyên gia kinh tế, mô hình này có lợi thế là phân bổ áp lực tăng trưởng đều hơn, tạo điều kiện cho việc chuẩn bị chính sách và đầu tư, nhưng lại đối mặt với thách thức trong việc duy trì động lực tăng trưởng mạnh mẽ và ổn định trong thời gian dài.
Kịch bản C với mô hình “Sóng tăng trưởng”. Kịch bản này gồm 3 giai đoạn tăng trưởng: giai đoạn 2025-2035 với 2 phân kỳ là 2025-2030 - phân kỳ chuẩn bị với GDP 8 - 10%/năm, 2031-2035 - phân kỳ tăng tốc với GDP 11 - 12%/năm; giai đoạn 2036-2040 với GDP 8,5 - 9%/năm; giai đoạn 2041-2045 với GDP 6,5 - 7,5%/năm. Đây là kịch bản được nhiều chuyên gia đánh giá cao về tính khả thi vì tốc độ tăng trưởng phù hợp với chu kỳ phát triển tự nhiên và giảm rủi ro “sốc tăng trưởng” đối với Việt Nam.
Cũng theo bà Hoa, mặc dù Việt Nam đặt ra những mục tiêu tăng trưởng kinh tế đầy tham vọng trong giai đoạn tới, song con đường hiện thực hóa các mục tiêu này chắc chắn không hề bằng phẳng. Bên cạnh những thách thức nội tại về năng suất lao động, chất lượng thể chế hay năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp..., Việt Nam còn đang chịu tác động mạnh mẽ từ những biến động khó lường của môi trường quốc tế. Từ căng thẳng địa chính trị, sự điều chỉnh chính sách của các nền kinh tế lớn, làn sóng dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu, cho đến những yêu cầu ngày càng khắt khe về phát triển xanh, chuyển đổi số và bảo đảm an ninh năng lượng… Tất cả những yếu tố này đang đặt ra không ít thách thức đối với quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam.

Cấp bách đổi mới mô hình tăng trưởng
Trong bối cảnh trên, nhìn lại mô hình tăng trưởng của Việt Nam để tìm ra giải pháp cho tăng trưởng kinh tế cao và bền vững trong thời gian tới, PGS,TS. Phạm Thế Anh - NEU cho biết, mô hình tăng trưởng của Việt Nam trong hơn ba thập kỷ qua chủ yếu dựa vào đầu tư và hướng ra xuất khẩu, thể hiện qua sự gia tăng mạnh mẽ tỷ lệ xuất khẩu/GDP. Việt Nam đã thu hút lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài để phục vụ xuất khẩu và tận dụng lực lượng lao động dồi dào, đồng thời tích cực tham gia và ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
Tuy nhiên, Việt Nam chưa thành công như các nước Đông Á là do khả năng tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu còn hạn chế; các doanh nghiệp FDI hoạt động độc lập và ít liên kết với doanh nghiệp trong nước, khiến doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu thực hiện các công đoạn gia công giá trị thấp và phụ thuộc lớn vào nhập khẩu nguyên liệu. Sự phụ thuộc vào xuất khẩu cũng tạo ra rủi ro lớn khi suy giảm kinh tế hoặc căng thẳng thương mại gia tăng xảy ra giữa các đối tác thương mại lớn.
Cũng theo ông Phạm Thế Anh, mặc dù Việt Nam đã nỗ lực chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng dựa trên khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, nhưng do chất lượng nguồn nhân lực thấp, nguồn lực đầu tư hạn chế và môi trường vĩ mô chưa thực sự thuận lợi, việc bứt phá trong lĩnh vực này còn gặp nhiều khó khăn.
“Do đó, nếu không có những đột phá chính sách, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có thể vẫn sẽ tiếp tục phụ thuộc chủ yếu vào xuất khẩu và đầu tư nước ngoài, tốc độ tăng trưởng chỉ ở mức vừa phải và khó có sự đột phá để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình. Đổi mới mô hình tăng trưởng để tăng cường nội lực và giảm thiểu các rủi ro từ bên ngoài là điều cấp thiết trong bối cảnh hiện nay” - ông Thế Anh nhấn mạnh.
Theo đó, ông Phạm Thế Anh cho rằng, Việt Nam có thể học hỏi từ kinh nghiệm phát triển của các nước Đông Á, đặc biệt là Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore, trong việc hoạch định và thực thi các chiến lược để đạt được tăng trưởng kinh tế cao.
Cụ thể, bài học quan trọng đầu tiên là vai trò định hướng mạnh mẽ của Nhà nước trong việc xác định các ngành kinh tế mũi nhọn, xây dựng kế hoạch phát triển dài hạn và tạo ra các chính sách hỗ trợ cụ thể về thuế, tín dụng và môi trường kinh doanh thuận lợi. Nhà nước chủ động dẫn dắt quá trình công nghiệp hóa, tập trung nguồn lực vào các lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh, có tiềm năng xuất khẩu với giá trị gia tăng cao.
Bên cạnh đó, các quốc gia Đông Á thành công đều đặc biệt chú trọng đến việc xây dựng nền tảng vững chắc cho tăng trưởng thông qua đầu tư mạnh mẽ vào cơ sở hạ tầng hiện đại (giao thông, năng lượng, viễn thông) và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Việt Nam cần tăng cường đầu tư công một cách hiệu quả vào các dự án cơ sở hạ tầng trọng điểm, đồng thời cải thiện hệ thống giáo dục và đào tạo để nâng cao kỹ năng cho người lao động, đáp ứng nhu cầu của các ngành kinh tế đang phát triển và thu hút đầu tư nước ngoài chất lượng cao. Việc học hỏi kinh nghiệm thu hút FDI, chuyển giao công nghệ và khuyến khích nghiên cứu và phát triển từ các nước này cũng là yếu tố then chốt để nâng cao năng suất và sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam.
Bổ sung thêm góc nhìn về chính sách nhằm hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao trong thời gian tới, TS. Đặng Thị Thu Hoài, Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược (Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương) - cho biết, những năm qua, đổi mới sáng tạo đã có những đóng góp nhất định cho nền kinh tế Việt Nam, song hiệu quả tổng thể vẫn chưa thực sự rõ nét. Để nâng cao chất lượng tăng trưởng, Việt Nam cần triển khai đồng bộ một loạt giải pháp trọng tâm.
Thứ nhất, cần chú trọng nâng cao năng suất của khu vực kinh tế tư nhân - khu vực chiếm tỷ trọng lớn về lao động và giữ vai trò trung tâm trong tăng trưởng kinh tế. Trong đó, cần có các giải pháp đột phá cho nền kinh tế tư nhân như hỗ trợ tiếp cận công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp và thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Đây chính là dư địa quan trọng để tạo ra cú hích cho sự phát triển toàn nền kinh tế.
Thứ hai, cần tập trung vào nâng cao năng suất nội ngành. Bên cạnh việc tiếp tục thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, việc cải thiện năng suất ngay trong từng ngành nghề là yếu tố then chốt. Việt Nam cần có chiến lược đầu tư có trọng tâm vào những lĩnh vực có sức lan tỏa cao như công nghiệp công nghệ cao, dịch vụ số và kinh tế xanh, từ đó tạo hiệu ứng lan tỏa, kéo năng suất toàn nền kinh tế đi lên.
Thứ ba, tăng cường liên kết vùng và đầu tư vào hạ tầng kết nối là yếu tố mang tính nền tảng. Hệ thống liên kết vùng hiệu quả và hạ tầng đồng bộ sẽ là chìa khóa để kết nối khu vực đô thị với nông thôn, đồng thời phát huy vai trò dẫn dắt của các trung tâm kinh tế động lực. “Việc đẩy mạnh đầu tư hạ tầng cũng như sắp xếp lại đơn vị hành chính cấp tỉnh sẽ góp phần tối ưu hóa việc phân bổ nguồn lực và tái định hình bản đồ tăng trưởng theo hướng hiệu quả, hợp lý và bền vững hơn” – bà Hoài nói./.