Thời gian qua, nguồn cung nhà ở liên tục sụt giảm rồi dần phục hồi trong 2 năm trở lại đây, song cơ cấu sản phẩm lại ngày càng mất cân đối, đặc biệt là thiếu hụt nghiêm trọng phân khúc đáp ứng khả năng chi trả của đại đa số người dân.
Dữ liệu của các đơn vị nghiên cứu, tư vấn về thị trường bất động sản cho thấy, nếu như trong năm 2018, nguồn cung nhà ở từng đạt mức gần 180.000 thì đến năm 2022 đã giảm xuống còn hơn 48.000 sản phẩm. Tuy nhiên, từ năm 2023, nguồn cung có tín hiệu phục hồi, với hơn 65.000 sản phẩm mới vào năm 2024, và riêng 6 tháng đầu năm 2025 đã đạt 51.000 sản phẩm mới.
Tuy nhiên, cơ cấu sản phẩm lại ngày càng lệch pha. Trong khi nhu cầu thực tế chủ yếu tập trung ở phân khúc căn hộ bình dân (dưới 25 triệu đồng mỗi m2) và trung cấp (từ 25 đến 50 triệu đồng mỗi m2), thì tỷ trọng nguồn cung ở hai phân khúc này lại liên tục sụt giảm, lần lượt từ mức 19% và 33% năm 2019, chỉ còn 7% và 19% vào năm 2024. Đáng chú ý, riêng tại Hà Nội và TP.HCM (cũ), hai địa phương có nhu cầu nhà ở lớn nhất, hai phân khúc này gần như vắng bóng hoàn toàn kể từ năm 2023.

Trước tình trạng trên, ngày 03/4/2023, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 338/QĐ-TTg phê duyệt Đề án "Đầu tư xây dựng ít nhất 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp giai đoạn 2021-2030". Đặt ra mục tiêu vừa cấp bách, vừa đầy thách thức với cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, các địa phương và với cả các doanh nghiệp.
Theo đó, trước năm 2023, nguồn cung nhà ở xã hội luôn trong tình trạng thiếu hụt, không thể đáp ứng nhu cầu thực tế của hàng triệu công nhân, người lao động đô thị và các đối tượng khác được hưởng chính sách về nhà ở xã hội.
Tuy nhiên, chỉ trong vòng 3 năm kể từ khi đề án đi vào triển khai, thị trường đã ghi nhận những tín hiệu tích cực. Số liệu thống kê từ Bộ Xây dựng cho thấy, lũy kế đến nay, cả nước có 692 dự án nhà ở xã hội đang được triển khai với quy mô 633 nghìn 559 căn, trong đó 146 dự án hoàn thành, quy mô hơn 103 nghìn căn; 144 dự án đã khởi công xây dựng, đang triển khai với quy mô hơn 127 nghìn căn; 402 dự án được chấp thuận chủ trương đầu tư, quy mô hơn 400 nghìn căn. Như vậy, số lượng dự án đã hoàn thành, khởi công, chấp thuận chủ trương đầu tư đến năm 2025 đạt 59,6% so với chỉ tiêu đã đặt ra tại Đề án 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội.
Đáng chú ý, số lượng căn nhà ở xã hội hoàn thành bứt tốc mạnh mẽ. Riêng 7 tháng đầu năm 2025, cả nước đã hoàn thành 36.862 căn nhà ở xã hội. Mặc dù mới chỉ đạt 37% mục tiêu của cả năm 2025, tuy nhiên, kết quả này bằng hơn 80% kết quả của cả năm 2024 và gấp hơn 7 lần so với năm 2022. Đồng thời, 9/31 địa phương được giao chỉ tiêu xây dựng nhà ở xã hội trong năm 2025 có khả năng hoàn thành và vượt chỉ tiêu đề ra.
Thách thức vẫn còn hiện hữu
Mặc dù thời gian qua việc phát triển nhà ở xã hội đã đạt được nhiều kết quả tích cực hơn khi Đề án xây dựng 1 triệu căn nhà xã hội được ban hành. Tuy nhiên, theo Hội Môi giới Bất động sản Việt Nam (VARS), thị trường nhà ở xã hội vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức cần giải quyết để tốc độ triển khai đề án bứt phá hơn nữa.
Thứ nhất, là quỹ đất để phát triển nhà ở xã hội. Hiện nay, việc bố trí quỹ đất tại nhiều địa phương vẫn còn bất cập, chưa phù hợp với tốc độ đô thị hóa và nhu cầu sử dụng đất ở. Không ít trường hợp, quỹ đất được sắp xếp tại những vị trí thiếu kết nối hạ tầng, bệnh viện, trường học,... dẫn tới khó khai thác, không đáp ứng được mục tiêu an sinh.
Do đó, VARS cho rằng, cơ quan quản lý Nhà nước cần nghiêm túc xem xét đánh giá và áp dụng chế tài kỷ luật với lãnh đạo một số địa phương chưa thực hiện đúng trách nhiệm trong việc phát triển nhà ở xã hội thời gian qua. Đồng thời, cần tiến hành rà soát toàn bộ các dự án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại, khu đô thị có quy mô từ 2ha trở lên tại các đô thị loại đặc biệt và loại I nhằm làm rõ: Trường hợp chủ đầu tư nộp tiền thay thế nghĩa vụ bố trí quỹ đất 20% để xây dựng nhà ở xã hội thì đã nộp hay chưa? Trường hợp hoán đổi quỹ đất ở vị trí khác để xây dựng nhà ở xã hội thì việc triển khai thực tế ra sao?
Thứ hai, về đánh giá nhu cầu nhà ở xã hội. Thực tế hiện nay, vẫn tồn tại tình trạng “vừa thiếu, vừa ế” do việc khảo sát đánh giá nhu cầu để lên kế hoạch triển khai dự án chưa sát với thực tế. Theo đó, nguồn cung luôn thiếu và yếu so với nhu cầu nhưng nhiều dự án nhà ở hội xã hội mở bán lại “ế” do vướng quy định về thủ tục, vị trí hoặc không phù hợp với người dân đủ điều kiện.
Để khắc phục việc trên, VARS kiến nghị cần nghiên cứu hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm đảm bảo việc bố trí quỹ đất và phát triển nhà ở xã hội, gắn với nhu cầu thực tế, có thể xem xét áp dụng các hình thức khảo sát chuyên nghiệp thông qua phương án thuê hoặc giao cho các đơn vị nghiên cứu thị trường độc lập thực hiện. Từ đó, có căn cứ khoa học và khách quan cho việc hoạch định kế hoạch phát triển.
“Thực tế vẫn tồn tại tình trạng một số trường hợp mua nhà ở xã hội nhưng không sử dụng để ở mà chuyển nhượng trái quy định, gây méo mó thị trường, làm tăng nguy cơ đầu cơ và khiến những người thực sự có nhu cầu không được tiếp cận nhà ở xã hội.
Để khắc phục điều này, song song với việc tăng cường thanh tra, kiểm tra toàn diện các dự án nhà ở xã hội, xử phạt doanh nghiệp có dự án bán sai đối tượng cũng như người dân chuyển nhượng sai quy định. VARS kiến nghị, sau thời hạn 5 năm sở hữu theo quy định hiện hành, việc chuyển nhượng nhà ở xã hội cần được ưu tiên cho những người dân thuộc diện đủ điều kiện mua nhà ở xã hội và đã được cơ quan thẩm quyền xác nhận. Trường hợp chuyển nhượng cho đối tượng không thuộc diện được hưởng chính sách về nhà ở xã hội, chủ sở hữu khi chuyển nhượng phải hoàn trả lại các ưu đãi đã được hưởng từ chính sách”, VARS kiến nghị.