Thông tư mới gồm 9 chương với tổng cộng 33 điều, được ban hành nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động liên quan đến sản xuất và kinh doanh vàng, đặc biệt là vàng miếng. Nội dung Thông tư tập trung hướng dẫn việc cấp, sửa đổi, bổ sung, thu hồi các loại Giấy phép và Giấy chứng nhận đối với hoạt động sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ; hoạt động mua bán vàng miếng; sản xuất vàng miếng; cũng như hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu vàng.

vangpng-68e93711750d5.png
Ảnh minh họa

Bên cạnh đó, Thông tư cũng quy định cụ thể về việc cấp hạn mức xuất nhập khẩu vàng, trách nhiệm kết nối, cung cấp thông tin của các doanh nghiệp và tổ chức tín dụng có hoạt động kinh doanh vàng với Ngân hàng Nhà nước. Việc thực hiện chế độ báo cáo định kỳ cũng được nêu rõ, theo đúng yêu cầu trong Nghị định số 24/2012/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 232/2025/NĐ-CP).

Thông tư số 34/2025/TT-NHNN có hiệu lực từ ngày 10/10/2025. Theo đó, các Giấy phép đã được cấp trước thời điểm Thông tư này có hiệu lực vẫn tiếp tục được sử dụng cho đến khi hết thời hạn ghi trên Giấy phép.

Liên quan đến yêu cầu về kết nối thông tin, Ngân hàng Nhà nước quy định thời điểm chậm nhất để doanh nghiệp, tổ chức tín dụng thực hiện việc kết nối thông tin theo Chương VI của Thông tư là trước ngày 31/3/2026. Riêng với các đơn vị được cấp phép kinh doanh mua bán vàng miếng, thời hạn chậm nhất để thực hiện kết nối, cung cấp thông tin về mức giá niêm yết với Ngân hàng Nhà nước là trước ngày 31/12/2025.

Về quy trình cấp hạn mức xuất khẩu, nhập khẩu vàng miếng và vàng nguyên liệu trong năm 2025, Thông tư nêu rõ sẽ không áp dụng theo quy định tại khoản 3 Điều 20 của chính văn bản này. Việc xét duyệt và cấp hạn mức sẽ được thực hiện linh hoạt, căn cứ vào tình hình thực tế thay vì tuân thủ theo thời hạn cứng.

Việc ban hành Thông tư số 34/2025/TT-NHNN được đánh giá là bước tiến quan trọng nhằm tăng cường tính minh bạch, hiệu quả trong quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh vàng. Đồng thời, đây cũng là cơ sở pháp lý quan trọng để kiểm soát thị trường vàng một cách ổn định, phù hợp với yêu cầu quản lý vĩ mô và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia./.