TPBank mua lại trước hạn hơn 5.600 tỷ trái phiếu

Theo số liệu từ Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam (VBMA), trong tháng 9, tổng giá trị trái phiếu được các doanh nghiệp mua lại trước hạn là gần 29.000 tỷ đồng, tăng gần 200% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế trong 9 tháng, tổng giá trị trái phiếu đã được các doanh nghiệp mua lại là hơn 142.000 tỷ đồng, tăng 67% so với cùng kỳ năm 2021.

Thực tế, trong những tháng gần đây, các ngân hàng đã mua lại hàng nghìn tỷ đồng trái phiếu trước hạn. Ở nhóm ngân hàng có quy mô tầm trung cũng đang ‘miệt mài’ mua lại trái phiếu trước hạn, điển hình trong đó là Ngân hàng TMCP Tiên Phong (TPBank, HOSE: TPB).

Thống kê trên HNX, từ tháng 4 đến tháng 9/2022, TPBank đã mua lại trước hạn 6 lô trái phiếu với tổng giá trị 5.650 tỷ đồng. Cả 6 lô trái phiếu này đều có kỳ hạn 3 năm, được phát hành với mục đích phát triển hoạt động kinh doanh của TPBank với lãi suất chủ yếu 3%/năm. Trái phiếu của TPBank là loại trái phiếu không chuyển đổi, không phải là nợ thứ cấp, không có đảm bảo bằng tài sản và không kèm theo chứng quyền.

Cụ thể, hồi tháng 4/2022, TPBank đã mua lại trước hạn toàn bộ lô trái phiếu mã TPBANKBOND_A4_160420_3Y_2 phát hành ngày 16/4/2020, đáo hạn ngày 16/4/2023 có tổng giá trị 800 tỷ đồng.

Tháng 5/2022, TPBank tiếp tục mua lại toàn bộ 1.000 tỷ đồng trái phiếu trước hạn mã TPBL2124001 ngày phát hành 5/5/2021 và đáo hạn ngày 5/5/2024.

Đến tháng 6/2022, nhà băng này cũng mua lại trước hạn toàn bộ 3 lô trái phiếu gồm các mã TPBL2124007 phát hành ngày 23/6/2021, ngày đáo hạn 23/6/2024 có giá trị 1.000 tỷ đồng; mã TPBL2124009 phát hành ngày 29/6/2021 có giá trị 1.100 tỷ đồng và mã TPBL2124008 phát hành ngày 28/6/2021 và đáo hạn ngày 28/6/2024 với giá trị 1.000 tỷ đồng.

Tiếp đến, ngày 29/9, TPBank đã mua lại toàn bộ 750 tỷ đồng trái phiếu trước hạn thuộc lô trái phiếu mã TPBL2124015, ngày phát hành là 29/9/2021, ngày đáo hạn ngày 29/9/2024.

a1.jpg
a2.jpg

Một trong những lô trái phiếu được TPBank mua lại trước hạn (nguồn: HNX)

Song song việc mua lại trước hạn, TPBank cũng dồn dập phát hành trái phiếu. Từ đầu năm 2022 đến nay, TPBank đã phát hành thành công tổng cộng 10 lô trái phiếu có mã từ TPBL2225001 đến TPBL2225010 với tổng giá trị 6.399 tỷ đồng. Tất cả các lô trái phiếu này đều không công bố rõ thông tin về lãi suất, mục đích phát hành.

Thực tế, sau sự kiện hủy các lô trái phiếu của Tân Hoàng Minh, thị trường trái phiếu đang chứng kiến làn sóng mua lại trước hạn của các doanh nghiệp và ngân hàng.

Đáng nói, động thái mua lại trái phiếu trước hạn tại TPBank diễn ra trong bối cảnh Bộ Tài chính ban hành Nghị định 65/2022/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 153/2020/NĐ-CP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ, có hiệu lực từ ngày 16/9. Theo đó, doanh nghiệp phải mua lại trái phiếu doanh nghiệp trước hạn bắt buộc khi vi phạm phương án phát hành (trong đó có phương án sử dụng vốn) hoặc vi phạm pháp luật.

Còn gần 33.000 tỷ đồng nghĩa vụ nợ tiềm ẩn

Mới đây, TPBank công bố kết quả kinh doanh 9 tháng đầu năm 2022. Cụ thể, lợi nhuận trước thuế 9 tháng đầu năm đạt 5.926 tỷ đồng, tăng gần 35% so với cùng kỳ và thực hiện 72% kế hoạch lợi nhuận cả năm.

Tính đến 30/9/2022, tổng tài sản của ngân hàng TPBank đạt hơn 317.000 tỷ đồng, đạt 90% kế hoạch mục tiêu. Tổng huy động của ngân hàng đạt trên 280.000 tỷ đồng, tăng 49.515 tỷ đồng so với thời điểm 30/9/2021. Dư nợ tín dụng đạt 178.902 tỷ đồng với sự đóng góp lớn từ phân khúc khách hàng cá nhân và khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Tỷ lệ an toàn vốn theo Basel III (CAR) tại thời điểm 30/6/2022 đạt 12,25% và tỷ lệ cho vay trên tiền gửi của khách hàng (LDR) tính đến hết tháng 9 đạt 60,91%. Đặc biệt, tỷ lệ nợ xấu tại TPBank 9 tháng đầu năm 2022 được kiểm soát tốt ở mức dưới 1%.

Trước đó, theo báo cáo tài chính soát xét 6 tháng đầu năm 2022, tổng nợ xấu tại TPBank tính đến 30/6/2022 tăng 11% lên hơn 1.285 tỷ đồng, kéo tỷ lệ nợ xấu tăng nhẹ từ 0,81% hồi đầu năm lên 0,85%. Trong đó, nợ có khả năng mất vốn tăng mạnh tới 50% chiếm hơn 448 tỷ đồng, nợ nghi ngờ tăng 23% lên hơn 430 tỷ đồng; tuy nhiên nhóm nợ dưới tiêu chuẩn lại giảm 20% xuống còn 406 tỷ đồng.

Thực tế, tỷ lệ nợ xấu tại ngân hàng chỉ phản ánh phần nợ xấu hiện rõ và được ghi nhận trong bảng cân đối kế toán. Vì vậy, nếu tính cả những phần nợ “tiềm ẩn” chưa được ghi nhận, thì tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng chắc chắn sẽ có thay đổi.

Tại các ngân hàng thương mại, chỉ tiêu ngoại bảng trong báo cáo tài chính là các cam kết giao dịch hối đoái và nghĩa vụ nợ tiềm ẩn. Các cam kết giao dịch hối đoái chủ yếu là các hợp đồng phái sinh nên rủi ro thấp. Còn nghĩa vụ nợ tiềm ẩn bao gồm cam kết bảo lãnh vay vốn, cam kết trong nghiệp vụ L/C (bảo lãnh qua thư tín dụng) và cam kết trong bảo lãnh khác như thanh toán, thực hiện hợp đồng, dự thầu… Trong đó, cam kết trong nghiệp vụ L/C nhìn chung có tính an toàn cao hơn so với các khoản bảo lãnh vay vốn hay các khoản bảo lãnh khác.

Quay trở lại với TPBank, theo báo cáo tài chính soát xét 6 tháng đầu năm 2022, tính đến cuối quý 2/2022, nghĩa vụ nợ tiềm ẩn tại TPBank ghi nhận hơn 32.849 tỷ đồng, tăng 10% so với đầu năm, tương đương tăng thêm 3.116 tỷ đồng trong 6 tháng.

Trong đó, bảo lãnh vay vốn giảm nhẹ 4% còn 203 tỷ đồng, tuy nhiên cam kết trong nghiệp vụ L/C tăng đến 36% đạt gần 5.200 tỷ đồng và đặc biệt, bảo lãnh khác chiếm áp đảo lên tới hơn 27.445 tỷ đồng, tăng 7% so với đầu năm.

Hơn nữa, khả năng gặp rủi ro của TPBank là khá cao khi ‘Nợ tiềm ẩn/cho vay khách hàng’ chiếm đến 22%. Năm 2019, nghĩa vụ nợ tiềm ẩn chỉ ở mức hơn 13.000 tỷ, sau hơn 2 năm, con số này đã tăng tới 145%, ghi nhận gần 33.000 tỷ đồng.

a3.jpg

Chưa đầy 4 năm, nghĩa vụ nợ tiềm ẩn tại TPBank đã tăng đến chóng mặt.

Thực tế, ngoài trái phiếu, nghĩa vụ nợ tiềm ẩn tại các ngân hàng cũng được ví như 'bom nổ chậm'.

Mặc dù việc quản lý dư nợ cho vay hiện nay đã được đẩy mạnh kiểm soát, song rủi ro từ các nghĩa vụ nợ tiềm ẩn của nhóm ngân hàng thương mại vẫn còn là một dấu hỏi lớn.

Chẳng hạn như nghiệp vụ bảo lãnh thanh toán hay bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ khác, hoàn cảnh kinh doanh khó khăn như hiện nay có thể đẩy nhiều doanh nghiệp đến việc vi phạm thỏa thuận. Lúc này ngân hàng sẽ phải đứng ra thực hiện nghĩa vụ với bên được bảo lãnh và các nghĩa vụ nợ tiềm ẩn sẽ trở thành nghĩa vụ nợ thực sự. Không những vậy, nguy cơ trở thành nợ xấu đối với các khoản nợ này cũng rất cao.

Vốn đã có rất nhiều vụ kiện liên quan đến các cam kết bảo lãnh ngân hàng. Cách đây vài năm đã xảy ra vụ việc bên nhận bảo lãnh không thanh toán tiền khiến Ngân hàng Agribank phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cho bên được bảo lãnh là Công ty TNHH Cao Trường Sơn số tiền 38.5 tỷ đồng.

Hay xảy ra vụ lùm xùm giữa SeABank và Công ty Tài chính Vinaconex – Viettel (VVF) về thương vụ bảo lãnh thanh toán trị giá 150 tỷ đồng cho CTCP Tập đoàn Vina Megastar đối với lượng trái phiếu công ty này bán cho VVF đã gây ra nhiều tranh cãi giữa các bên liên quan.

Đáng nói, các khoản cam kết ngoại bảng hiện vẫn phải trích lập dự phòng rủi ro theo quy định của Ngân hàng nhà nước. Tuy nhiên, thực tế bấy lâu nay cho thấy vì đây là khoản mục ngoại bảng nên thông tin chi tiết về bản chất và việc trích lập dự phòng chưa rõ ràng. Điều này càng khiến lo ngại tăng cao trong bối cảnh hiện nay là hoàn toàn có cơ sở.

Chính vì vậy, khi đánh giá rủi ro của một ngân hàng cần xem xét thêm phần chỉ tiêu ngoại bảng. Bởi rủi ro lớn nhất đối với các nhà băng không chỉ nằm ở số nợ xấu có thể “nhìn thấy” trên bảng cân đối kế toán, mà ở chính các nghĩa vụ nợ tiềm ẩn có thể sẽ trở thành nghĩa vụ nợ thực sự.

Vân Anh