Tăng trưởng tín dụng từng lên tới…hơn 50%/năm
Tại Hội nghị về công tác điều hành tín dụng do Ngân hàng Nhà nước tổ chức mới đây, ông Phạm Chí Quang – Phó Vụ trưởng phụ trách Vụ Chính sách tiền tệ cho biết, trước năm 2021, do đặc thù kinh tế Việt Nam, các nhu cầu vốn phụ thuộc chủ yếu vào tín dụng ngân hàng, kênh tín dụng là kênh cung cấp vốn chủ yếu cho nền kinh tế, có tốc độ tăng rất nhanh.
Giai đoạn 2007 - 2010, tín dụng tăng bình quân trên 36%, tỷ lệ tín dụng/GDP cũng tăng rất nhanh, kéo theo các cuộc đua lãi suất, dẫn đến lãi suất cho vay tăng nhanh, nợ xấu hệ thống ngân hàng tăng cao.
Nhiều TCTD mất khả năng thanh toán, hệ thống đứng trước bờ vực khủng hoảng, gây bất ổn kinh tế vĩ mô, lạm phát lên mức 2 con số, đỉnh điểm là vào năm 2008. Các tổ chức quốc tế IMF, WB, Moody’s… cảnh báo nới lỏng tín dụng giai đoạn này đã gia tăng nguy cơ rủi ro trọng yếu đối với nền kinh tế, đe dọa an toàn hệ thống, mất khả năng kiểm soát, nợ xấu...
Ngoài ra, kinh tế Việt Nam có độ mở lớn, nên tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã tác động kéo dài ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế, đặc biệt là hoạt động ngân hàng.
Trước bối cảnh đó, từ năm 2011, kết hợp với việc siết chặt hoạt động thanh tra giám sát theo các tiêu chí an toàn theo chuẩn mực quốc tế, NHNN đã tiến hành giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho từng TCTD căn cứ vào năng lực tài chính, quản trị, điều hành của từng TCTD.
Các tiêu chí chính sách phân bổ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng được NHNN công bố công khai ngay từ đầu năm tại Chỉ thị 01 của Thống đốc và đều được kiểm toán NHNN, kiểm toán nhà nước tiến hành kiểm toán, đánh giá thể hiện rõ nguyên tắc công khai, minh bạch.
Tổng kết quá trình triển khai biện pháp phân bổ tăng trưởng tín dụng từ 2011 đến nay, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống giảm mạnh từ 30% /năm (cá biệt có năm lên tới 53,8%) xuống chỉ còn 12 – 14% những năm gần đây. Sự ổn định của thị trường tiền tệ đã góp phần kiểm soát lạm phát, góp phần thúc đẩy các TCTD nâng cao năng lực quản trị điều hành, cải thiện các chỉ số an toàn hoạt động và giảm mặt bằng lãi suất thị trường.
Về tình hình triển khai công tác tín dụng năm 2022, Bà Hà Thu Giang – Phó Vụ trưởng phụ trách Vụ Tín dụng các ngành kinh tế cho biết, trong 8 tháng đầu năm, NHNN đã chỉ đạo hướng dòng vốn vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên, hỗ trợ phục hồi kinh tế, xã hội. Nhờ vậy, tín dụng các ngành đều tăng ngay từ đầu năm 2022 và tăng cao hơn so với cùng kỳ 2021, 2020.
Trong thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục tập trung tín dụng vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, cho vay phục vụ nhu cầu đời sống... với mức lãi suất hợp lý đảm bảo an toàn vốn vay, hỗ trợ phục hồi phát triển kinh tế xã hội; tiếp tục kiểm soát chặt chẽ rủi ro tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro nhằm đảm bảo an toàn hệ thống theo các quyết định của NHNN; cân đối nguồn vốn để cho vay các dự án sản xuất kinh doanh hiệu quả, nhất là các ngành lĩnh vực được hỗ trợ lãi suất theo quy định tại Nghị định 31; tiếp tục thực hiện có hiệu quả các giải pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho khách hàng theo chỉ đạo của NHNN, các chương trình chính sách tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ,…
Chưa thể bỏ công cụ hạn mức tín dụng
Phát biểu tại Hội nghị, ông Nguyễn Văn Du – Quyền Chánh Thanh tra, giám sát Ngân hàng đánh giá, hầu hết các ngành có tăng trưởng tín dụng cao cũng đều là những ngành có tăng trưởng tốt. Tuy nhiên một số ngành tăng trưởng thấp nhưng dư nợ tín dụng tiếp tục tăng cao như bất động sản, tiêu dùng,… Chủ trương điều hành tín dụng của NHNN không cấm tín dụng vào bất động sản,… nhưng cần phải cẩn trọng và có cơ cấu danh mục đầu tư tín dụng hợp lý để hạn chế rủi ro, đặc biệt trong điều kiện áp lực tín dụng rất lớn.
Tại hội nghị đa số các TCTD đánh giá việc điều hành tín dụng của NHNN trong thời gian qua là phù hợp. Các ý kiến đều cho rằng chúng ta chưa thể bỏ công cụ hạn mức tín dụng. Tỷ lệ tăng trưởng tín dụng 14% năm 2022 là phù hợp trong bối cảnh phục hồi kinh tế sau dịch và đã tăng cao hơn so với năm trước.
Đồng thời, cần có tỷ lệ phân bổ theo chất lượng hoạt động của các TCTD tránh việc phân bổ cào bằng; và việc thông tin riêng đến từng TCTD là cần thiết vì phân bổ theo xếp loại không thể công khai ra công chúng ảnh hưởng đến sự cạnh tranh giữa các TCTD.
Các ý kiến cũng cho rằng nếu tỷ lệ tăng trưởng tín dụng cao sẽ dẫn đến nguy cơ chạy đua lãi suất giữa các TCTD và an toàn hệ thống.
Ông Phạm Quang Dũng- Chủ tịch HĐQT Vietcombank cho rằng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng là một tham số kinh tế vĩ mô rất quan trọng, các NHTW trên thế giới đều kiểm soát chỉ tiêu này trực tiếp hoặc gián tiếp.
Tại Việt Nam từ 2011 đến nay, NHNN đã thực hiện phân bổ chỉ tiêu tín dụng, biện pháp này đã góp vai trò quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định vĩ mô,… Theo lãnh đạo Vietcombank, tăng trưởng tín dụng hàng năm đã được tính toán và xác định dựa trên các mô hình kinh tế lượng, căn cứ mục tiêu lạm phát, diễn biến kinh tế vĩ mô, tổng quy mô tăng trưởng tín dụng được xử lý khoa học. Tiêu chí phân bổ cho các ngân hàng càng ngày càng được làm chặt chẽ hơn theo Thông tư 52.
Cùng chung quan điểm, ông Lưu Trung Thái – Tổng Giám đốc NHTMCP Quân đội (MB) cho rằng, thực tế nhiều năm qua đã chứng minh phương pháp điều hành tín dụng của NHNN và phân bổ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng hàng năm cho từng TCTD đã phát huy hiệu quả trong việc kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Việc thông báo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng ngay từ đầu năm cũng giúp các TCTD chủ động trong hoạt động kinh doanh của mình. Theo ông Thái, nhu cầu vốn của nền kinh tế hiện nay là rất lớn, tuy nhiên cũng không thể dồn hết vào hệ thống ngân hàng mà cần phải phát triển qua nhiều kênh khác.
Nền kinh tế trong nước đang chịu nhiều áp lực do tác động lan tỏa của biến động kinh tế toàn cầu. Chúng ta phải đảm bảo kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn một cách hợp lý nhất để vừa kiểm soát lạm phát, vừa đảm bảo phục hồi và tăng trưởng. NHNN phải đối mặt với nhiều áp lực lớn, do đó việc kiểm soát tăng trưởng tín dụng để tránh ảnh hưởng đến lạm phát là điều tất yếu.
Đồng thời các ý kiến cũng kiến nghị Chính phủ cần có giải pháp hiệu quả phát triển và thu hút vốn trung và dài hạn từ các kênh khác như trái phiếu, chứng khoán và thu hút đầu tư nước ngoài… Nền kinh tế không nên quá phụ thuộc vào vốn tín dụng với bản chất kinh tế chủ yếu phục vụ vốn ngắn hạn và lưu động…
Hiện nay, xã hội đang có xu hướng tập trung quá nhiều vào tín dụng ngân hàng thậm chí kể cả vốn trung và dài hạn, điều đó tạo áp lực lên hệ thống ngân hàng và lâu dài ảnh hưởng đến an toàn hệ thống ngân hàng và nền kinh tế.
Châu Giang